Chuyển đến nội dung chính

All Saints – Wikipedia tiếng Việt


All Saints (tạm dịch: Toàn Thánh) là một nhóm nhạc nữ tiếng nhất Anh Quốc vào cuối thập niên 90 cùng với nhóm Spice Girls,với 7 đĩa đơn đứng đầu vị trí # 1 tại Anh, bán ra hơn 10 triệu đĩa nhạc trên khắp thế giới.Nhóm nhạc này từng chiến thắng giải Brit Awards với ca khúc Never Ever đứng vị trí thứ #1 suốt 2 tuần liền tại Anh.Họ gồm có 4 thành viên:Shaznay Lewis,Melanie Blatt và cặp chị em Natalie Aplleton,Nicole Appleton.



Mới đầu, bạn nhạc này gồm 3 người là: Shaznay Lewis,Melanie Blatt và Simone Rainford,họ lấy tên là All Saints 1.9.7.5 vì họ cùng gặp nhau trên con đường All Saints ở Anh.Theo Simone, lúc đầu nhóm từng nghĩ đến cái tên Spice để đặt.

Năm 1994,nhóm bắt tay với hãng ZTT Record để thu âm, nhóm ra mắt 2 single nhưng không thành công.Ngoài ra, Simone và Melaine có những mâu thuẫn với nhau khiến cho nhóm nhạc trở nên rắc rối hơn.

Năm 1995,Simone quyết định rời khỏi nhóm.Shaznay và Melanie gấp rút kiếm người thay thế cho Simone.Sau một thời gian tìm kiếm, Melaine gặp gỡ cha của Nicole(vốn là bạn học cũ của cô) ông quyết định đưa cả hai con gái mình vào nhóm là:Nicole và Natalie.Nhóm quyết định đổi tên thành All Saints.

1997-1998:All Saints[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi ra mắt thành viên chính thức vào tháng 5/1996,bốn cô gái trẻ gặp Karl Gordon, họ thu bản thử ca khúc "I Know Where It's At",và sau đó chính thức thu âm.Tuy nhiên, một số hãng thu âm muốn họ giống như Spice Girls,,nhưng nhóm không đồng ý.Nhóm ký hợp tác với London Records,một hãng thu âm khá có tiếng tại Anh.

Mùa hè 1997,nhóm phát hành single "I Know Where It's At", ca khúc đứng vị trí thứ #4 tại Anh.Single thứ 2 ra mắt là "Never Ever" ca khúc này liên tục giữ vị trí quán quân tại Anh và đứng vững trong 7 tuần với trí thứ #1 tại Úc.Single này bán ra hơn cả triệu đĩa bạch kim và chiến thắng giải Brit Awards năm 1998 với giải Video Hay nhất và Single hay nhất.Album All Saints từ đó ra đời, đứng vị trí thứ #2 trong top Album bán chạy nhất trong năm.Single thứ 3 tiếp tục ra mắt, là double A-side với hai ca khúc "Under The Bridge/Lady Marmalade" cover lại từ 2 nhóm nhạc nổi tiếng là Red Hot Chilli Peppers và LaBelle tiếp tục dẫn đầu vị trí quán quân tại Anh.Single nối tiếp là "Bootie Call"vẫn leo lên vị trí thứ #1 và single cuối là "War Of Nerves" chỉ chiếm vị trí khiêm tốn thứ #7.

Tháng 11/1998,nhóm được đề cử trong MTV Europe Music Awards tại Milan, tuy nhiên Melanie không có mặt vì cô tổ chức sinh nhật cho con gái mình.

2000-2001: Saints & Sinners[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm quay trở lại với single "Pure Shores" là ca khúc nhạc phim trong phim "The Beach",ca khúc này đứng trụ bốn tuần tại Anh với vị trí quán quân và được kênh VH bầu chọn là ca khúc hay nhất mọi thời đại.Ca khúc được nhóm trình bày trong MTV Europe Music Awards tại Stockholm.

Một thời gian sau, cặp chị em Natalie và Nicole cùng với Melaine tham gia bộ phim đầu tay tên là Honest do ca sĩ Dave Stewart đạo diễn.Tuy nhiên, bộ phim này bị dư luận chỉ trích khá gay gắt bởi những cảnh nóng thái quá của chị em Natalie và Nicole trong phim.

Vào tháng 10/2000,nhóm ra mắt single mới là "Black Coffee" thành công rất mỹ mãn.Album "Saints & Sinners" từ đó ra đời, album này đã chiếm vị trí thứ # 1 tại Anh và nhận được đĩa bạch kim.Singel thứ 3 và cũng là cuối cùng được phát hành có tên là "All Hoocked Up" ra mắt chỉ chiếm vị trí thứ #7.

2001: All Hits và Tan rã[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 2001,nhóm tuyên bố tan rã, với những rạn nứt chung trong nhóm, London Records ra mắt album "All Hits" là album tổng hợp những singles từ đầu của nhóm.Trong đó, có một ca khúc "TwentyFourSeven" do Melanie trình bày một mình.

2001-2005: Sư nghiêp solo[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi tách nhóm ra, Melanie ra mắt single đầu tay là "TwentyFourSeven", ca khúc này đứng vị trí thứ #6 tại Anh.

Tháng 2/2002,Melanie thay thế Kelis để được hát chính trong ca khúc "I'm Leavin'" của Outsidaz và Rah Digga.Ca khúc này chỉ đứng vị trí thứ #42 tại Anh.

Single thứ 3 ra mắt có tên là "Do Me Wrong",ra mắt vào tháng 8/2003,do London Records.Ca khúc này đứng vị trí thứ #18 tại anh.

Tháng 4/2005,Melanie thu âm ca khúc "See Me" là nhạc phim trong phim hoat hình "Robots".Tuy nhiên, cô chuẩn bị album solo cho riêng mình thì All Saints quyết định tái hợp lại nên album cô đành bở dỡ nửa chừng

Sau khi All Saints tan rã, cặp chị em Natalie và Nicole Appleton lập ra nhóm Appleton với đội hình là 2 chị em, single đầu tay"Fantasy" ra mắt đứng vị trí thứ 2 tại Anh vào tháng 9/2002.Sau đó, album đầu tay "Everything's Eventual" ra mắt, kết quả không mấy khả quan.

Lewis phát hành single đầu tay tên là "Never Felt Like This Before" vào tháng 7/2004 đứng vị trí thứ #8 tại Anh, album Open ra mắt chỉ thành công mức trung bình.

2006-2007: Tái hợp[sửa | sửa mã nguồn]

Sau những thất bại trong quá trình solo của nhóm, đầu tháng 1/2006,nhóm quyết định tái hợp trở lại, với hãng thu âm mới là Parlophone.Từ tháng 1-8,nhóm bắt tay thực hiện album thứ 3 là "Studio 1".

Single đầu tay ra mắt là "Rock Steady" trình làng vào tháng 10/2006,ca khúc này đứng vị trí thứ #3 tại Anh nhưng lại đứng vị trí từ trên 20 tại các quốc gia khác.

Single thứ 2 là "Chick Fit" ra mắt trên mạng, đứng vị trí thứ #256 tại Anh.

Album "Studio 1" ra đời, album thất bại thê thảm so với mong đợi của nhóm, chỉ bán được 40.000 bản và hãng Parlophone chấm dứt hợp đồng với nhóm

2007-2009: Hãng thu âm mới và Album mới[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 1/2008, Melanie, Shaznay cặp chị em Appleton, bắt tay làm một album mới.Sẽ phát hành một thời gian gần giữa năm 2009. Tuy nhiên, cho đến giờ album này vẫn không thể tìm được một hãng thu âm thích hợp và các thành viên phải lo cho cuộc sống riêng của từng người nên All Saints đành phải tan rã lần thứ hai.







Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Quách (họ) – Wikipedia tiếng Việt

họ Quách viết bằng chữ Hán Quách là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, Triều Tiên (Hangul: 곽, Romaja quốc ngữ: Gwak) và Trung Quốc (chữ Hán: 郭, Bính âm: Guo). Trong danh sách Bách gia tính họ này đứng thứ 146, về mức độ phổ biến họ này xếp thứ 16 ở Trung Quốc theo thống kê năm 2006. Người Việt Nam họ Quách có danh tiếng [ sửa | sửa mã nguồn ] Quách Lãng, vị nam tướng quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình) đã theo Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, được thờ ở đình Đông Ba thuộc thôn Đông Ba, phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. [1] Quách Bốc, thủ lĩnh của khởi nghĩa Quách Bốc Quách Hữu Nghiêm, quan lại nhà Lê. Quách Đàm (1863-1927), thương gia gốc Hoa tại Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh Quách Thị Hồ, nghệ nhân ca trù Việt Nam Andy Quách, ca sĩ Mỹ gốc Việt ở Trung tâm Vân Sơn Quách Thị Trang, nữ phật tử Việt Nam đã hi sinh anh dũng, hiện có quảng trường Quách Thị Trang trước cổng chợ Bến Thành, Q1, TP HCM. Quách Tấn, thi sĩ Việt Nam Quách Văn Chung,

Tứ đại thiên sư – Wikipedia tiếng Việt

Tứ đại Thiên sư (四大天師) là bốn vị tiên có vai trò đón tiếp như các vị sứ giả trên thiên đình trong Đạo giáo và thần thoại Trung Hoa Tứ đại Thiên sư gồm: Trương Đạo Lăng thiên sư Hứa Tinh Dương chân nhân thiên sư (Hứa Tốn, tự Kính Chi) Khâu Hoằng Tế chân nhân thiên sư Cát Tiên ông thiên sư Cát Hồng Đây là bốn vị đạo sĩ có thật, đã từng tu luyện theo Đạo giáo và được tôn lên như là những vị chân nhân, thiên sư. Bài viết liên quan đến Trung Quốc này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. x t s

Sân bay Jalaluddin – Wikipedia tiếng Việt

Sân bay Jalaluddin là một sân bay ở thành phố Gorontalo, Gorontalo, Indonesia (IATA: GTO , ICAO: WAMG ). Sân bay này có 1 đường băng dài 2258 m bề mặt nhựa đường. Các hãng hàng không và các tuyến điểm [ sửa | sửa mã nguồn ] Hiện đang có các hãng hàng không sau đang hoạt động tại sân bay này: Lion Air (Ujung Pandang, Karawang, Pandeglang, Mạlengka) Sriwijaya Air (Davao, Manado, Ujung Pandang, Karawang, Pandeglang, Mạlengka) Garuda Indonesia (Manado, Jakarta Barat, Karawang, Pandeglang, Mạlengka)